NMN là viết tắt của nicotinamide mononucleotide, một phân tử tồn tại tự nhiên ở mọi sinh vật sống. Ở cấp độ phân tử, nó là một ribo-nucleotide – một đơn vị cấu trúc cơ bản của RNA axit nucleic. Về mặt cấu trúc, phân tử này bao gồm một nhóm nicotinamide, một ribose và một nhóm phosphate (Hình dưới). NMN là tiền chất trực tiếp của phân tử thiết yếu nicotinamide adenine dinucleotide (NAD+) và được coi là thành phần chủ yếu để tăng mức NAD+ trong tế bào.
Mục Lục
Nicotinamide Adenine Dinucleotide (NAD+) là gì?
NAD+ là một coenzyme thiết yếu cần thiết cho sự sống và các chức năng của tế bào. Enzyme là chất xúc tác tạo nên các phản ứng sinh hóa. Coenzyme là các phân tử ‘trợ giúp’ mà các enzym cần có để hoạt động.
Chức năng của NAD+
Ngoài nước, NAD+ là phân tử tồn tại nhiều nhất trong cơ thể (chỉ sau nước), và nếu không có nó, tế bào không thể tồn tại. NAD+ có trong nhiều protein khắp cơ thể, chẳng hạn như các sirtuin – có chức năng sửa chữa DNA bị tổn thương. Nó cũng rất quan trọng đối với ti thể, là những nguồn cung cấp năng lượng cho tế bào và tạo ra năng lượng hóa học mà cơ thể chúng ta sử dụng.
NAD+ hoạt động như một Coenzyme trong Ti thể
NAD+ đóng một vai trò đặc biệt tích cực trong các quá trình trao đổi chất, ví dụ như quá trình đường phân, Chu trình TCA (Chu trình AKA Krebs hoặc chu trình Axit Citric), và chuỗi chuyền điện tử. Đây là các quá trình xảy ra trong ti thể và là cách chúng ta thu được năng lượng tế bào.
Với vai trò như một phối tử, NAD+ liên kết với các enzym và chuyển các electron giữa các phân tử. Các electron là cơ sở nguyên tử cho năng lượng tế bào và bằng cách chuyển từ phân tử này sang phân tử khác, NAD+ hoạt động thông qua cơ chế tế bào tương tự như sạc pin. Pin bị cạn kiệt khi các electron được sử dụng cạn kiệt để cung cấp năng lượng. Các electron đó không thể quay trở lại điểm xuất phát của chúng nếu không có công cụ hỗ trợ thúc đẩy. Trong các tế bào, NAD+ đóng vai trò là bộ hộ trợ đó. Bằng cách này, NAD+ có thể làm giảm hoặc tăng hoạt động của enzym, biểu hiện gen và tín hiệu tế bào.
NAD+ Giúp kiểm soát các hư tổn DNA
Khi tế bào sống lão hóa, các tổn thương DNA xảy ra do tác động từ các yếu tố môi trường như bức xạ, ô nhiễm dẫn đến sao chép DNA không chính xác. Theo lý thuyết lão hóa, sự tích tụ của các tổn thương DNA là nguyên nhân chính gây ra lão hóa. Hầu hết tất cả các tế bào đều chứa ‘bộ máy phân tử’ để sửa chữa tổn thương này. Bộ máy này tiêu thụ NAD+ và các phân tử năng lượng. Do đó, tổn thương DNA quá mức có thể làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên quý giá của tế bào.
Một protein sửa chữa DNA quan trọng là PARP (Poly (ADP-ribose) polymerase), phụ thuộc lớn vào NAD+ để hoạt động. Mức NAD+ suy giảm ở những người lớn tuổi. Sự tích tụ các tổn thương DNA là kết quả của quá trình lão hóa dẫn đến phải tăng cường PARP khiến cho giảm nồng độ NAD+. Sự suy giảm này càng trầm trọng hơn nếu có bất kỳ tổn thương DNA nào trong ti thể.
NAD+ Ảnh hưởng đến Sirtuins (Gen Trường sinh) như thế nào?
Gen Sirtuin được phát hiện ra gần đây – còn được gọi là “người bảo hộ gen”, đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của tế bào. Sirtuins là một họ của enzym, tham gia vào các phản ứng khi có căng thẳng tế bào và sửa chữa các hư tổn. Nó cũng tham gia vào quá trình sản sinh insulin, quá trình lão hóa và các bệnh lý liên quan đến lão hóa, chẳng hạn như các bệnh thoái hóa thần kinh và tiểu đường… Và để kích hoạt sirtuins thì cần có NAD+.
Như Tiến sĩ David Sinclair, một nhà di truyền học thuộc ĐH Harvard và nhà nghiên cứu NAD cho biết: cơ thể chúng ta bị giảm NAD+ khi già đi “và kết quả là suy giảm hoạt động của sirtuin, đây là nguyên nhân chính khiến cơ thể chúng ta mắc nhiều bệnh lý hơn khi về già.” Nghiên cứu của Tiến sĩ cho thấy việc tăng mức NAD+ một cách tự nhiên khi cơ thể lão hóa sẽ giúp làm chậm hoặc đảo ngược quá trình lão hóa.
Tại sao chúng ta nên quan tâm đến NAD+
Kể từ khi phát hiện ra NAD+ vào năm 1906, phân tử này đã nhận được sự quan tâm lớn của các nhà khoa học vì sự phong phú của nó trong cơ thể và vai trò quan trọng trong các con đường phân tử giúp cơ thể chúng ta hoạt động. Trong các nghiên cứu trên động vật, việc nâng cao mức NAD+ trong cơ thể đã cho thấy những kết quả đầy tích cực trong nghiên cứu chất chuyển hóa và bệnh liên quan đến tuổi tác, lối sống và còn cho thấy các đặc tính chống lão hóa rõ rệt. Các bệnh liên quan đến tuổi tác như bệnh tiểu đường, tim mạch, thoái hóa thần kinh và suy giảm hệ thống miễn dịch…
NMN có thể giúp chống lại COVID-19 không?
Khi COVID-19 quét diễn ra với triệu chứng giống như viêm phổi, lây nhiễm cho hàng tỷ người trên toàn thế giới, các nhà khoa học đã bắt đầu tìm kiếm một phương pháp chữa bệnh an toàn và hiệu quả. Các nhà khoa học và bác sĩ lão khoa nghiên cứu về sinh học của quá trình lão hóa, tin rằng liệu pháp điều trị vấn đề lão hóa cơ thể có thể cung cấp giải pháp mới để đối phó với đại dịch.
Các thống kê đã chỉ ra rằng COVID-19 lây nhiễm cho người cao tuổi không theo tỷ lệ rõ ràng. Khoảng 13,4% bệnh nhân từ 80 tuổi trở lên chết vì COVID-19, so với 1,25% và 0,06% của những người ở độ tuổi 50 và 20. Một nghiên cứu của Đại học Oxford phân tích 17,4 triệu người trưởng thành ở Anh cho thấy tuổi tác là yếu tố nguy cơ rõ rệt nhất liên quan đến tử vong do COVID-19. Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm là giới tính nam, bệnh tiểu đường khó kiểm soát được và bệnh hen suyễn nặng.
Với bản chất gerolavic – có hại cho người già – của virus, một số chuyên gia lão khoa đã khẳng định rằng điều trị “lão hóa” là một giải pháp lâu dài để bảo vệ người lớn tuổi khỏi COVID-19 và các bệnh truyền nhiễm tương tự khác trong tương lai. Một nghiên cứu đã liệt kê các tác nhân thúc đẩy NAD+ như NMN và NR là một trong những phương pháp điều trị tiềm năng. Các nhà khoa học khác cũng đưa ra giả thuyết rằng người lớn tuổi có thể hưởng lợi từ tác dụng kéo dài tuổi thọ của NAD+ và ngăn chặn sự kích hoạt quá mức gây chết người của các phản ứng miễn dịch được gọi là cơn bão cytokine, theo đó chính cơ thể tấn công lại các tế bào của nó chứ không phải virus.
Tế bào sử dụng hết NAD+ trong cuộc chiến chống lại virus corona, khiến cơ thể suy yếu, theo một nghiên cứu gần đây. NAD+ cần thiết cho quá trình bảo vệ miễn dịch tự nhiên chống lại virus.
Trong khi các nhà khoa học đang chạy đua thời gian trong phòng thí nghiệm để tìm ra phương pháp chữa trị COVID-19, thì các bác sĩ ở tuyến đầu cũng áp dụng các biện pháp cuối cùng để điều trị cho bệnh nhân của mình, bác sĩ Robert Huizenga của Trung tâm Y tế Cedars Sinai đã cho bệnh nhân uống một loại NMN có tăng cường kẽm để làm dịu cơn bão cytokine do COVID-19 gây nên. NMN đã giúp làm hạ sốt và mức độ viêm nhiễm của bệnh nhân trong vòng 12 giờ sau khi uống.
Trong thời kỳ đại dịch, NMN ngày càng được chú ý nhiều hơn vì vai trò rõ rệt trong việc duy trì cân bằng hệ thống miễn dịch, có thể đánh giá là một phương pháp điều trị cho cơn bão cytokine do virus corona gây ra. Với các nghiên cứu cho thấy các kết quả khả quan, mặc dù không phải là một phương pháp chữa bệnh đảm bảo, các nhà khoa học và bác sĩ tin rằng tác dụng tăng cường của NAD+ đối với COVID-19 rất đáng được ghi nhận.
Lão hóa
NAD+ như một nhiên liệu giúp sirtuins duy trì tính toàn vẹn của bộ gen và thúc đẩy quá trình sửa chữa DNA. Giống như một chiếc ô tô không thể vận hành mà không có nhiên liệu, cần phải có NAD+ để kích hoạt sirtuins. Kết quả từ các nghiên cứu trên động vật cho thấy nâng cao mức NAD+ trong cơ thể sẽ kích hoạt sirtuins và tăng tuổi thọ của vật chủ. Nhờ những kết quả đầy hứa hẹn về đặc tính chống lão hóa, các nhà khoa học đã nghiên cứu thêm để thành công trên người.
Rối loạn chuyển hóa
NAD+ là một trong những chìa khóa quan trọng duy trì các chức năng ti thể khỏe mạnh và sản lượng năng lượng ổn định. Lão hoá và chế độ ăn giàu chất béo làm giảm mức NAD+ trong cơ thể. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng dùng thuốc tăng cường NAD+ có thể làm giảm tăng cân do chế độ ăn uống và tuổi tác và cải thiện chuyển hóa, thấy rõ ngay cả khi vật chủ đã lão hóa. Các nghiên cứu khác còn cho thấy bệnh tiểu đường giảm đi rõ rệt, cho thấy tiềm năng phát triển các chiến lược mới chống lại các rối loạn chuyển hóa, chẳng hạn như béo phì.
Chức năng tim
Cải thiện mức NAD+ sẽ bảo vệ tim và cải thiện các chức năng của tim. Huyết áp cao có thể làm tim to và động mạch bị tắc nghẽn dẫn đến đột quỵ. Thí nghiệm trên động vật cho thấy, tăng cường NAD+ giúp bổ sung NAD+ trong tim và ngăn ngừa các tổn thương tim do thiếu lưu lượng máu. Các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng tăng cường NAD+ có thể bảo vệ khỏi chứng to tim bất thường.
Thoái hóa thần kinh
Ở những động vật thí nghiệm bị bệnh Alzheimer, nâng cao mức NAD+ có thể làm giảm sự tích tụ protein làm gián đoạn sự liên lạc của tế bào trong não để tăng chức năng nhận thức. Tăng NAD+ cũng bảo vệ các tế bào não khỏi chết khi không có đủ lưu lượng máu đến não. Nhiều nghiên cứu trên các mô hình động vật cho thấy những kết quả trong việc giúp não già đi một cách khỏe mạnh, chống lại sự thoái hóa thần kinh và cải thiện trí nhớ.
Hệ thống miễn dịch
Hệ thống miễn dịch suy giảm khi tuổi tác già đi, và dễ bị ốm hơn và khó có khả năng chống lại các bệnh như cúm mùa, hoặc như COVID-19. Các nghiên cứu gần đây cho thấy mức NAD+ đóng một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh tình trạng viêm và sự tồn tại của tế bào trong quá trình đáp ứng miễn dịch và quá trình lão hóa. Nghiên cứu nhấn mạnh tiềm năng điều trị của NAD+ đối với rối loạn chức năng miễn dịch.
Cơ thể tạo ra Nicotinamide Adenine Dinucleotide (NAD+) như thế nào?
Cơ thể chúng ta sản xuất NAD+ một cách tự nhiên từ các thành phần cấu tạo nhỏ hơn hoặc tiền chất, gọi là nguyên liệu thô để sản xuất NAD+. Có năm tiền chất chính tồn tại trong cơ thể: tryptophan, nicotinamide (Nam), axit nicotinic (NA, hoặc niacin), nicotinamide riboside (NR), và nicotinamide mononucleotide (NMN). Trong số này, NMN đại diện cho một trong những bước cuối cùng của quá trình tổng hợp NAD+.
Các tiền chất này đều có được từ chế độ ăn uống. Nam, NA và NR đều thuộc dạng vitamin B3, một chất dinh dưỡng quan trọng. Khi vào cơ thể, tế bào có thể tổng hợp NAD+ bằng một số con đường khác nhau. Con đường sinh hóa phức tạp tương đương với một dây chuyền sản xuất của nhà máy. Nếu coi NAD+ là một sản phẩm thì sẽ cần nhiều dây chuyền sản xuất để sản xuất ra sản phẩm này.
Con đường đầu tiên được gọi là con đường de novo. De novo là một cụm từ tiếng Latinh có nghĩa là “từ đầu”. Con đường de novo bắt đầu trước tiên với tiền chất NAD+, tryptophan, và được hình thành từ đó.
Con đường thứ hai được gọi là con đường cứu hộ. Con đường này cũng giống như tái chế, trong đó nó tạo ra NAD+ từ các sản phẩm của sự phân hủy NAD+. Tất cả các protein trong cơ thể cần phải được phân hủy thường xuyên để ngăn chúng tích tụ đến mức độ không tốt cho sức khỏe. Là một phần của chu trình sản xuất và phân hủy này, các enzym lấy một số kết quả của quá trình phân hủy protein và đưa nó trở lại ngay dây chuyền sản xuất của protein đó.
NAD+ Sinh tổng hợp từ NMN
NMN được tạo ra từ các vitamin nhóm B trong cơ thể. Enzyme chịu trách nhiệm tạo ra NMN trong cơ thể được gọi là nicotinamide phosphoribosyltransferase (NAMPT). NAMPT gắn nicotinamide (vitamin B3) vào một đường phosphate được gọi là PRPP (5′-phosphoribosyl-1-pyrophosphate). NMN cũng có thể được tạo ra từ ‘nicotinamide riboside’ (NR) thông qua việc bổ sung một nhóm phosphate.
‘NAMPT’ là enzym giới hạn tốc độ trong việc sản xuất NAD+. Điều này có nghĩa là mức NAMPT thấp hơn làm giảm sản xuất NMN, dẫn đến giảm mức NAD+. Bổ sung các phân tử tiền chất như NMN cũng có thể tăng tốc độ sản xuất NAD+.
Phương pháp tăng mức NAD+
Nhịn ăn hoặc giảm lượng calo, hay còn gọi là hạn chế calo, đã được chứng minh là làm tăng mức NAD+ và hoạt động của gene sirtuin. Với động vật thí nghiệm, sự gia tăng hoạt động của NAD+ và sirtuin từ việc hạn chế calo đã được chứng minh là làm chậm quá trình lão hóa. Mặc dù NAD+ có trong một số loại thực phẩm, nhưng nồng độ quá thấp sẽ ảnh hưởng đến nồng độ trong tế bào. Sử dụng một số chất bổ sung, chẳng hạn như NMN, đã được chứng minh là làm tăng mức NAD+.
Bổ sung NAD với NMN
Nồng độ nội bào của NAD+ giảm do lão hóa nguyên nhân là các chức năng tế bào bình thường làm cạn kiệt nguồn cung cấp NAD+ theo thời gian. Mức độ khỏe mạnh của NAD+ cho thấy sẽ được phục hồi bằng cách bổ sung tiền chất NAD+. Theo nghiên cứu, các tiền chất như NMN và nicotinamide riboside (NR) là chất bổ sung sản xuất NAD+, làm tăng nồng độ NAD+. David Sinclair, một nhà nghiên cứu NAD+ tại ĐH Harvard, nói “Cho ăn hoặc sử dụng NAD+ trực tiếp không phải là một lựa chọn tốt trong thực tế. Phân tử NAD+ không thể dễ dàng vượt qua màng tế bào để đi vào tế bào, và do đó không thể ảnh hưởng tích cực đến quá trình trao đổi chất. Thay vào đó, các phân tử tiền thân của NAD+ được sử dụng để tăng mức độ khả dụng sinh học của NAD+”. Điều này có nghĩa là NAD+ không thể được sử dụng như một chất bổ sung trực tiếp, vì nó không dễ dàng hấp thụ. Tiền chất NAD+ dễ hấp thu hơn NAD+ và là chất bổ sung hiệu quả hơn.
Các chất bổ sung NMN được hấp thụ và phân bổ trong cơ thể như thế nào?
NMN dường như được hấp thụ vào tế bào thông qua chất vận chuyển phân tử được gắn trên bề mặt tế bào. Nhỏ hơn NAD+, phân tử NMN có thể được hấp thụ vào tế bào hiệu quả hơn. NAD+ không thể dễ dàng xâm nhập vào cơ thể vì hàng rào được tạo ra bởi màng tế bào. Lớp màng này có một không gian không có nước ngăn chặn các ion, các phân tử phân cực và các phân tử lớn xâm nhập vào trừ khi có nhân tố chất vận chuyển. Người ta từng cho rằng NMN phải được biến đổi trước khi xâm nhập vào tế bào nhưng bằng chứng mới cho thấy nó có thể xâm nhập trực tiếp vào tế bào thông qua chất vận chuyển đặc hiệu NMN trong màng tế bào.
Bên cạnh đó, tiêm NMN dẫn đến tăng NAD+ ở nhiều vùng trong cơ thể bao gồm tuyến tụy, mô mỡ, tim, cơ xương, thận, tinh hoàn, mắt và mạch máu. Uống NMN ở động vật làm tăng NAD+ trong gan trong vòng 15 phút.
Tác dụng phụ và mức độ an toàn của NMN
NMN cho thấy mức độ an toàn cao trên động vật và cơ thể người. Phân tử này không độc hại, ngay cả ở nồng độ cao, kể cả khi uống dài hạn (một năm). Thử nghiệm lâm sàng trên người đã được hoàn thành và bằng chứng cho thấy nó không độc hại.
Mặc dù một nghiên cứu về nam giới Nhật Bản được công bố vào tháng 11 năm 2019 ghi nhận rằng các đối tượng đã tăng mức bilirubin trong máu sau khi sử dụng NMN, nhưng mức độ này vẫn nằm trong giới hạn bình thường và không gây các di chứng vượt ngưỡng an toàn. Các nghiên cứu cho thấy tính an toàn và hiệu quả lâu dài của việc sử dụng và NMN không liên quan đến bất kỳ tác dụng phụ đã biết nào khác .
Lịch sử của NMN và NAD+
Nicotinamide adenine dinucleotide, gọi tắt là NAD, là một trong những phân tử quan trọng và linh hoạt nhất trong cơ thể. Vì nó là trung tâm để cung cấp năng lượng cho tế bào nên hầu như không có quá trình sinh hóa nào không cần đến NAD. Do đó NAD là trọng tâm của nghiên cứu sinh học diện rộng.
Năm 1906, Arthur Harden và William John Young đã phát hiện ra một yếu tố trong chất lỏng chiết xuất từ men bia làm tăng quá trình lên men đường thành rượu. Và yếu tố được gọi là coferment vào thời điểm đó chính là NAD hiện nay.
Harden, cùng với Hans von Euler-Chelpin, tiếp tục bóc tách những bí ẩn của quá trình lên men. Họ được trao giải Nobel năm 1929 về các khám phá chi tiết về các quá trình này, bao gồm cả hình dạng và đặc tính hóa học của NAD sau này.
Câu chuyện về NAD được tiếp nối vào những năm 1930, Otto Warburg, một nhà khoa học đoạt giải Nobel, đã khám phá ra vai trò trung tâm của NAD trong việc tạo điều kiện cho nhiều phản ứng sinh hóa. Ông phát hiện ra rằng NAD đóng vai trò như một loại chất chuyển tiếp sinh học cho các electron. Sự chuyển electron từ phân tử này sang phân tử khác, làm cơ sở cho năng lượng cần thiết để thực hiện tất cả các phản ứng sinh hóa.
Năm 1937, Conrad Elvehjem và các đồng nghiệp tại Đại học Wisconsin, phát hiện ra rằng việc bổ sung NAD+ đã chữa khỏi bệnh pellagra cho chó. Ở người, pellagra gây ra một loạt các triệu chứng, bao gồm tiêu chảy, sa sút trí tuệ và lở loét trong miệng. Nó bắt nguồn từ sự thiếu hụt niacin và hiện nay bệnh này đã được điều trị bằng nicotinamide, một trong những tiền chất của NMN.
Nghiên cứu của Arthur Kornberg về NAD+ trong suốt những năm 40 và 50 là công cụ giúp ông khám phá ra các nguyên tắc đằng sau sự sao chép DNA và phiên mã RNA, hai quá trình quan trọng đối với sự sống.
Năm 1958, Jack Preiss và Philip Handler đã khám phá ra ba bước sinh hóa, theo đó axit nicotinic được chuyển đổi thành NAD. Chuỗi các bước này, ngày nay được biết đến với cái tên Preiss-Handler Pathway.
Năm 1963, Chambon, Weill và Mandel báo cáo nicotinamide mononucleotide (NMN) cung cấp năng lượng cần thiết để kích hoạt một enzyme hạt nhân quan trọng. Khám phá này đã mở đường cho một loạt nghiên cứu đáng chú ý về một loại protein được gọi là PARP. PARP đóng vai trò quan trọng trong việc sửa chữa tổn thương DNA, điều chỉnh sự chết đi của tế bào và hoạt động của chúng có liên quan đến những thay đổi trong tuổi thọ.
Năm 1976, Rechsteiner đã tìm thấy bằng chứng thuyết phục rằng NAD+ có một số chức năng chính khác trong tế bào động vật có vú, ngoài vai trò sinh hóa như một phân tử truyền năng lượng.
Khám phá này giúp cho Leonard Guarente và các cộng sự phát hiện ra rằng các protein được gọi là sirtuins sử dụng NAD để kéo dài tuổi thọ bằng cách giữ một số gen im lặng(silent) một cách đặc biệt.
Kể từ đó, sự quan tâm ngày càng tăng đối với NAD và các sản phẩm trung gian như NMN và NR, vì khả năng cải thiện các vấn đề sức khỏe liên quan đến tuổi tác.
Triển vọng của Nicotinamide Mononucleotide
Với các đặc tính chữa bệnh đầy hứa hẹn mà NMN đã cho thấy trong các nghiên cứu trên động vật, các nhà nghiên cứu đã hướng tới việc tìm ra cách thức hoạt động của phân tử này trong cơ thể con người. Một thử nghiệm lâm sàng gần đây ở Nhật Bản đã chứng minh rằng phân tử này an toàn và được dung nạp tốt ở liều lượng được sử dụng trong thử nghiệm. Nhiều nghiên cứu và thử nghiệm trên người đang được tiến hành. Nó là một phân tử hấp dẫn và linh hoạt, mà hiệu quả vẫn còn nhiều điều để khám phá.
Tài liệu nghiên cứu tham khảo
- Vincenzo Carafa, Dante Rotili, Mariantonietta Forgione, Francesca Cuomo, Enrica Serretiello, Gebremedhin Solomon Hailu, Elina Jarho, Maija Lahtela-Kakkonen, Antonello Mai, Lucia Altucci. Sirtuin functions and modulation: from chemistry to the clinic. Clin epigenetics, 2016; DOI: 10.1186/s13148-016-0224-3.
- Niels J. Connell, Riekelt H. Houtkooper, Patrick Schrauwen. NAD+ metabolism as a target for metabolic health: have we found the silver bullet? Diabetologia, 2019; DOI: 10.1007/s00125-019-4831-3.
- Julia Evangelou. “Natural compound reduces signs of aging in healthy mice.” ScienceDaily.com. 27 October, 2016. Web. 16 January. 2020.
- Henryk Jęśko, Przemysław Wencel, Robert P. Strosznajder, Joanna B. Strosznajder. Sirtuins and Their Roles in Brain Aging and Neurodegenerative Disorders. Neurochem Res, 2017; DOI: 10.1007/s11064-016-2110-y.
- Ann Katrin-Hopp, Patrick Grüter, Michael O. Hottiger. Regulation of Glucose Metabolism by NAD+ and ADP-Ribosylation. Cells, 2019; DOI: 10.3390/cells8080890.
- Vamshi K.C. Nimmagadda, Tapas K. Makar, Krish Chandrasekaran, Avinash Rao Sagi, Jayanta Ray, James W. Russell, Christopher T Bever Jr. SIRT1 and NAD+ precursors: Therapeutic targets in multiple sclerosis a review. J Neuroimmunol, 2017; DOI: 10.1016/j.jneuroim.2016.07.007.
- Katalin Sas, Elza Szabó, László Vécsei. Mitochondria, Oxidative Stress and the Kynurenine System, with a Focus on Ageing and Neuroprotection. Molecules, 2018; DOI: 10.3390/molecules23010191.
- Yue Yang, Anthony A. Sauve. NAD+ metabolism: Bioenergetics, signaling and manipulation for therapy. Biochim Biophys Acta, 2016; DOI: 10.1016/j.bbapap.2016.06.014.
- Jun Yoshino, Kathryn F. Mills, Myeong Jin Yoon, Shin-ichiro Imai. Nicotinamide Mononucleotide, a Key NAD+ Intermediate, Treats the Pathophysiology of Diet- and Age-Induced Diabetes in Mice. Cell Metab, 2011; DOI: 10.1016/j.cmet.2011.08.014.
- Mills KF, Yoshida S, Stein LR, Grozio A, Kubota S, Sasaki Y, Redpath P, Migaud ME, Apte RS, Uchida K, Yoshino J, Imai SI. Long-Term Administration of Nicotinamide Mononucleotide Mitigates Age-Associated Physiological Decline in Mice. Cell Metab, 2016; DOI: 10.1016/j.cmet.2016.09.013.
- Shuang Zhou, Xiaoqiang Tang, Hou-Zao Chen. Sirtuins and Insulin Resistance. Front Endocrinol (Lausanne), 2018; DOI: 10.3389/fendo.2018.00748.
- Irie J, Inagaki E, Fujita M, et al. Effect of oral administration of nicotinamide mononucleotide on clinical parameters and nicotinamide metabolite levels in healthy Japanese men, 2019 Nov 2]. Endocr J. 2019;10.1507/endocrj.EJ19-0313. doi:10.1507/endocrj.EJ19-0313
© Bản quyền nội dung thuộc về website bsdalieu.vn
Mọi thông tin sao chép từ website này đều phải ghi rõ nguồn https://bsdalieu.vn/
Discussion about this post